Ngôn ngữ là hồn cốt lõi của dân tộc

Thứ Hai, 19/06/2023 12:42
Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, đất nước ta đã có nhiều khởi sắc, nhiều thành tựu. Giữa bối cảnh ấy, Tiếng Việt cũng có những bước phát triển, giàu có hơn, phong phú hơn. Bên cạnh ưu điểm và thành tích đó, có một thực tế cần quan tâm là việc sử dụng Tiếng Việt cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, đặc biệt là sự sử dụng thiếu trong sáng, thậm chí lệch chuẩn, lai căng, hỗn tạp. Hướng tới Hội nghị Văn hoá toàn quốc, Báo Lao Động đã có cuộc phỏng vấn với PGS.TS Nguyễn Lân Trung – Phó Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
Thưa PGS.TS Nguyễn Lân Trung, tiếng nói, chữ viết là của cải vô cùng quan trọng và quý giá của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, là niềm tự hào của mỗi dân tộc. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Trải qua các giai đoạn phát triển, Tiếng Việt của chúng ta đã được hình thành và có vai trò như thế nào?
– Tiếng Việt có một lịch sử hình thành lâu dài, sự ra đời, tồn tại và phát triển của chữ viết tiếng Việt cũng là một nỗ lực rất lớn của biết bao thế hệ. Lấy ví dụ suốt 1.000 năm Bắc thuộc, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu nặng của tiếng Hán, nhưng rồi chúng ta cũng có chữ viết riêng, đó là chữ  Nôm – hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, dựa trên cơ sở chữ Hán tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết và biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu. Rồi đầu thế kỷ 17, khi các tu sĩ Phương Tây Dòng Tên vào truyền giáo ở nước ta, họ đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh, làm tiền đề cho cả một quá trình lâu dài hình thành và phát triển nên chữ Quốc ngữ.
Dù trải qua không ít thăng trầm, nhưng nhân dân ta đã luôn làm tất cả để bảo tồn ngôn ngữ, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, hồn cốt của dân tộc. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, của giao tiếp, ngôn ngữ đồng thời là công cụ để truyền tải cả một nền văn hóa, một tinh thần dân tộc. Câu nói “Tiếng Việt còn, nước Nam còn” luôn văng vẳng bên ta, khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ dân tộc.
Trải qua thời gian, người dân Việt Nam không ngừng giữ gìn, cải tiến tiếng Việt, làm cho tiếng nói của dân tộc ngày càng giàu và đẹp, luôn là niềm tự hào của con người Việt Nam trước bạn bè quốc tế. Vậy, Tiếng Việt giữ vị trí như thế nào trong việc phát triển đất nước, thưa ông?
– Trong lịch sử phát triển dân tộc, chúng ta luôn có được một quan điểm đúng đắn, nhất quán về sứ mệnh bảo tồn, duy trì và phát triển tiếng Việt. Còn nhớ từ những ngày đầu tiên, ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, khi giặc đói còn đang hoành hành khắp nơi, Hồ Chủ tịch đã kêu gọi đồng bào bên cạnh nhiệm vụ chống giặc ngoài, giặc đói còn phải chống cả giặc dốt nữa. Phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ với phương châm “người biết chữ dạy người chưa biết chữ” đã mang lại con chữ cho biết bao người dân.
Ngôn ngữ là một cấu phần của văn hóa, ngôn ngữ truyền tải văn hóa, các loại hình văn hóa nghệ thuật, những giá trị, những nét đặc thù văn hóa được thể hiện thông qua ngôn ngữ và bằng ngôn ngữ. Chúng ta tự hào có được một kho tàng văn thơ tiềm tàng, một nền văn học đồ sộ làm nên những giá trị nhân văn của dân tộc. Ngôn ngữ góp phần quan trọng phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ, với một hệ thống thuật ngữ của riêng mình. Không phải bất cứ đất nước đang phát triển nào cũng đều có thể giảng dạy ở tất các các cấp học, các bậc học bằng tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình.
Tiếng Việt đã góp phần tạo nên bản sắc Việt Nam trong suốt quá hình thành và phát triển dân tộc, là nhân tố, là chìa khóa tạo nên sự thống nhất, hòa hợp, đoàn kết trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam, tiếng nói Việt Nam luôn là niềm tự hào vang lên trên các diễn đàn, trên trường quốc tế.
Giữ gìn và làm giàu tiếng Việt là trách nhiệm của toàn dân. Song, cuộc sống phát triển không ngừng trong bối cảnh sự thâm nhập mạnh mẽ của tiếng nước ngoài, tiếng Việt trong quá trình sử dụng đã đặt ra rất nhiều thách thức liên quan đến tính toàn vẹn, sự trong sáng và phong phú. Liệu có phải ý thức giữ gìn tiếng Việt có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức? 
– Thế giới ngày nay là một thế giới phẳng, sự giao lưu giữa các thứ tiếng, sự thâm nhập của một ngôn ngữ nước ngoài vào là không tránh khỏi và ngày càng diễn ra với tốc độ cao hơn, nhưng ta nên coi đó là một tất yếu, mặt khác sự giao thoa ngôn ngữ đó còn có thể mang lại nhiều điểm tích cực cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Vấn đề là thái độ và sự ứng xử của chúng ta như thế nào trước những xung đột nếu có đó. Việt Nam cũng không nằm trong ngoại lệ, sự “xâm nhập” của các ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh vào nước ta là rất mạnh mẽ, đôi lúc gây ra một tình trạng có thể nói là “lộn xộn” quá mức. 
Chúng ta đã thấy trong cuộc sống và ngay cả tại các diễn đàn khoa học sự lạm dụng tiếng nước ngoài, sự sử dụng chắp vá, có thể nói là khá bừa bãi, thậm chí là sự khoa trương có phần lố bịch của một bộ phận người dân, nhà khoa học. Đặc biệt là sự lạm dụng này đang xảy ra ngay trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây ra rất nhiều hệ lụy và ảnh hưởng xấu tới công chúng. Đáng tiếc là xu hướng này có phần tăng lên trong những năm gần đây do xu thế mở cửa của đất nước. Giáo dục tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, giáo dục gia đình trong lời ăn tiếng nói của con cháu, sự uốn nắn của người lớn, người có trách nhiệm đối với sự sử dụng tiếng Việt lệch chuẩn của giới trẻ…, cũng chưa được quan tâm thích đáng gây ra một thực trạng khá đau lòng như hiện nay. 
Đã đến lúc cần phải có một sự xem xét nghiêm túc, một sự quyết tâm vào cuộc quyết liệt hơn nữa của các cơ quan có thẩm quyền, kể từ cấp cao nhất, có sự khảo sát toàn diện, điều tra xã hội có chiều sâu và sự thẩm định chặt chẽ để có thể có được một bức tranh tổng thể về ảnh hưởng của các xu thế này đến sự giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, từ đó xây dựng và triển khai hệ thống các giải pháp hiệu quả nhất.
Thời gian qua, chúng ta cũng đã có những nỗ lực không ngừng, những bài nghiên cứu sâu, những hội nghị, hội thảo, những quyết sách mới, những thay đổi trong sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy tiếng Việt và ngữ văn ở các cấp học, những chương trình về tiếng Việt trên báo, đài, truyền hình…, nhưng thật sự từng ấy là chưa đủ vì dường như nó thiếu đi một định hướng chung, một chiến lược xuyên suốt, một quyết tâm thực sự đủ lớn để làm thay đổi nhận thức chung, từ các cấp ban ngành, các thiết chế xã hội, cho đến người dân. Hệ thống giải pháp cần căn cơ và toàn diện, các chế tài đủ mạnh đi kèm với các chế độ tôn vinh, khen thưởng cũng sẽ góp phần nâng cao ý thức của người sử dụng tiếng Việt, đó là điều cốt lõi nhất.
Tôi cũng cho rằng Nhà nước cần xem xét lấy một ngày trong năm làm “Ngày tôn vinh và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”.
Thưa ông, cuộc sống càng phát triển năng động thì tốc độ gia tăng vốn từ vựng mới ngày càng cao. Đó là xu thế tất yếu. Cần phải làm gì để chấn chỉnh những lệch lạc trong sử dụng ngôn ngữ, điều chỉnh hành vi ngôn ngữ?
– Trước hết, những thiết chế được giao nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn chính sách, như Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, hệ thống các trường Đại học…, cần thể hiện rõ hơn nữa vai trò của mình. Các cơ quan tuyên giáo, các cơ quan thông tin đại chúng, các Nhà xuất bản…, cũng đóng một vai trò quyết định. Đối với ảnh hưởng không tốt từ sự thâm nhập của tiếng nước ngoài thì cần quan niệm giao lưu văn hóa là xu hướng chung, nhưng làm sao để  “để hòa nhập nhưng không hòa tan” lại là vấn đề khác.
Cuối cùng, nói gì thì nói, ý thức của người dân là cái quan trọng nhất, ý thức đó không tự nó sinh ra mà là sản phẩm của cả một quá trình giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, từ công sở nơi làm việc đến đến các diễn đàn, các phương tiện thông tin đại chúng…, tất cả sẽ làm nên một sức mạnh tổng hợp để ở mọi nơi, mọi lúc người dân được sống trong một không khí trong lành của một tiếng Việt trong sáng, giàu nhạc điệu, giàu sức sống.  
Nhắc đến một Hội nghị Văn hóa, nhiều người thường chỉ nghĩ đến các nội dung liên quan đến các loại hình nghệ thuật, đến văn học, thơ ca, đến các phong tục tập quán…, nhưng thực ra một yếu tố nằm cơ hữu trong tất cả các nội dung đó, góp phần quan trọng tạo nên những giá trị đó là ngôn ngữ lại có phần chưa được quan tâm thích đáng!   
Hy vọng rằng trong Hội nghị Văn hóa sắp tới, tiếng Việt sẽ tìm lại được vị trí vốn có của nó, vị thế, vai trò, và nhu cầu bức thiết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt được đặt lên ngang tầm với những vấn đề quan yếu khác, chúng ta sẽ có hẳn một tiểu ban  riêng dành cho tiếng Việt, để sau Hội nghị, đất nước sẽ được chứng kiến một luồng sinh khí mới thổi hồn vào trong tiếng Việt yêu thương của chúng ta.
Theo Lao Động
https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/ngon-ngu-la-hon-cot-cua-dan-toc-976263.ldo
“Lời nói là gói vàng” – văn hóa ngôn ngữ đất kinh kỳ

“Lời nói là gói vàng” – văn hóa ngôn ngữ đất kinh kỳ

Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt nhằm liên lạc, giao tiếp giữa con người với con người, cũng chính bởi lẽ đó, ngôn ngữ chính là sự thể hiện của văn hóa từng vùng miền, từng địa phương. Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến, trái tim của đất nước, do vậy, “Tiếng Hà Nội” là sự kết tinh, hội tụ những gì tốt đẹp nhất từ mọi miền Tổ quốc. Đó là thứ ngôn ngữ mềm mại, tế nhị, êm ái và phong phú, được diễn đạt một cách trong sáng, thanh lịch, nhã nhặn mà chỉ cần nghe tiếng là có thể nhận ra ngay “người Hà Nội”.
Sức mạnh và vẻ đẹp ngôn ngữ

Sức mạnh và vẻ đẹp ngôn ngữ

Bạn thử tưởng tượng rằng, bỗng một ngày nào đó, tiếng nói và chữ viết đột nhiên như có đôi cánh nhiệm màu rời khỏi loài người vốn đã sáng tạo ra nó, bay đến một thiên hà xa xôi nào khác… 
Ngô Tự Lập: "Nhiều kiệt tác của thế giới bị biến thành thứ không bằng nhạc chế"

Ngô Tự Lập: "Nhiều kiệt tác của thế giới bị biến thành thứ không bằng nhạc chế"

Ngô Tự Lập là một nhạc sĩ, nhà sư phạm, nhà văn, dịch giả và nhà nghiên cứu văn hóa - Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (CLEF) cho rằng, nhiều kiệt tác của thế giới hiện nay bị biến thành một thứ thậm chí không bằng nhạc chế – bởi lẽ, người làm và hát “nhạc chế” ý thức rất rõ, rằng mọi người đều biết rõ ca từ thật của bài hát.
Một vài tìm tòi về ngôn ngữ

Một vài tìm tòi về ngôn ngữ

Bài viết giải đáp được phần nào các câu hỏi: Vì sao cùng là ngôn ngữ đơn lập mà tiếng Việt làm được chữ biểu âm còn tiếng Hán thì không; vì sao tiếng Nhật rất nghèo âm tiết lại làm được chữ biểu âm; vì sao phần lớn các nước đều dùng ngôn ngữ đa lập và chữ biểu âm.

Quy luật ngôn ngữ của nguyên thủ

Quy luật ngôn ngữ của nguyên thủ

Phong cách ngôn ngữ trong giao tiếp không chỉ phụ thuộc vào truyền thống ngôn ngữ đã được hình thành trong nước mà còn chủ yếu dựa vào khả năng của từng cá nhân. Tuy nhiên vẫn có thể tìm ra một số quy luật sử dụng ngôn ngữ của các nguyên thủ
Huy Anh CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA - GIÁO DỤC QUỐC TẾ VIỆT TRƯỜNG TRUNG CẤP QUỐC TẾ ĐÔNG DƯƠNG VIỆN QUỐC TẾ PHÁP NGỮ VOV2 HỆ THỐNG GIÁO DỤC CHẤT LƯỢNG CAO NGUYỄN BỈNH KHIÊM - CẦU GIẤY TRƯỜNG TIỂU HỌC, THCS VÀ THPT HỒNG ĐỨC LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM TRUNG TÂM HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO QUỐC GIA JF ACECOOK VAJA HEID NUI TRUC VIJACA dhnn thpt bac ha