Âm nhạc
Âm nhạc truyền thống Nhật Bản vốn phát triển gắn liền với sân khấu kịch, múa và các loại hình nghệ thuật khác (những loại hình có đặc trưng là giọng người hát trội hơn hẳn tiếng đàn). Nhạc cụ truyền thống của Nhật có nhiều, trong đó đàn biwa khá phổ biến và được nhiều người nước ngoài biết đến. Nhạc cổ điển Nhật Bản được gọi là Hogaku, bao gồm nhiều thể loại nhạc với các tên gọi khác nhau phụ thuộc vào nhạc cụ, như Gagaku, Biwa gaku, No gaku, Sokyoku, Shakuhachi, Shamisen ongaku, Minyo.
Một trong những thể loại âm nhạc cổ nhất ở Nhật là Gagaku, kết hợp một cách nhuần nhuyễn cả nhạc Trung Quốc, Triều Tiên, Ba Tư và Ấn Độ. Loại nhạc này trở thành nhạc cung đình, cách điệu hoá cao độ và mang đậm tính lễ nghi. Chính loại nhạc này đã đưa hệ thống âm tiết nhạc Trung Quốc vào Nhật.
Cảnh biểu diễn Gagaku năm 2010 (Nguồn: Wikipedia)
Các loại hình âm nhạc khác bao gồm: Nhạc cổ điển phương Tây, nhạc Pop và các trào lưu nhạc khác. Nhạc phương Tây phát triển mạnh từ cuối thế kỉ XIX và ngày nay phổ biến đến nỗi khi nói đến âm nhạc, người ta nghĩ ngay đến nhạc phương Tây, còn để nói đến nhạc truyền thống người ta phải nói "Nhạc Nhật Bản". Giới trẻ Nhật yêu âm nhạc và nhiều ban nhạc trẻ và ca sỹ có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống âm nhạc của Nhật cũng như nhiều nước châu Á.
Nghệ thuật biểu diễn và nhà hát
Nét đặc biệt của nghệ thuật biểu diễn Nhật Bản là sự kết hợp giữa múa, kịch và nhạc. Trong sân khấu truyền thống Nhật Bản có sự kết hợp hài hoà giữa những yếu tố du nhập từ Trung Quốc và những yếu tố bản địa.
Nhà hát cổ điển gồm có: kịch No, Kyogen, Bunraku (kịch múa rối), Kabuki và Buyo, trong đó Kabuki, No, Kyogen và Bunraku là những thể loại truyền thống nổi tiếng mà tất cả diễn viên đều là nam giới, kể cả khi đóng các vai nữ.
No là thể loại cổ nhất, xuất hiện vào thế kỉ XIII, có nguồn gốc từ một lối biểu diễn dân gian thời thượng cổ. No thấm nhuần tinh thần Thiền (Zen), là kịch hát dành cho quí tộc và samurai. Khi diễn No, các diễn viên đeo mặt nạ, sử dụng rất ít động tác và các động tác thì mang tính tượng trưng.

Biểu diễn No ở Đền Kasuga - Thành phố Tamba Sasayama (Nguồn: Wikipedia)
Kyogen là một loại hài kịch, thường được biểu diễn cùng một sân khấu với kịch No, vào trước các vở kịch No hoặc là xen giữa các màn của kịch No. Nếu như No là những vở bi kịch, buồn bã hoặc nặng nề, nghiêm trang với những nhân vật trong truyền thuyết hay lịch sử xa xưa, thì kịch Kyogen lại mang đến những tiếng cười sảng khoái, sự chế giễu nhẹ nhàng, với những nhân vật là những người dân thường, những ông chủ và người hầu vui tính.
Kabuki (‘ca vũ kĩ) cũng là một loại kịch cổ, ra đời sau kịch No, vào khoảng đầu thế kỷ thứ XVII. Trong kịch Kabuki người ta dùng ngôn ngữ rất cổ, khi biểu diễn sử dụng cả ca, vũ, nhạc và lời. Các vở kịch này thường làm sống lại lịch sử và đối tượng chủ yếu của nó là tầng lớp thị dân và cuộc sống của họ. Khi mới ra đời, từ Kabuki có nghĩa là “có khuynh hướng mới”, sau này nó mới dược mang nghĩa là “ca vũ kĩ” như bây giờ. Những nam giới đóng vai nữ trong kịch Kabuki được gọi là onnagata.
Bunraku là múa rối (gọi theo tên nhà hát múa rối ở Osaka - nhà hát Bunraku za). Một tên gọi khác của Bunraku là Joruri. Kịch múa rối của Nhật khác với múa rối ở Việt Nam ở chỗ là con rối rất to và nặng, một con rối do ba người điều khiển. Những người điều khiển rối thường mặc quần áo đen để không làm lơ đãng sự chú ý của khán giả vào con rối, nhưng đôi khi họ cũng xuất hiện cùng với con rối mà không mặc áo đen, nhằm cho khán giả xem sự thú vị của việc điều khiển con rối.
Buyo là thuật ngữ chỉ tất cả các điệu múa cổ điển và truyền thống của Nhật. Nghệ thuật múa truyền thống Nhật Bản mang tính dè dặt và nghi lễ (khác với Odori có đặc điểm là các động tác trần tục hơn). Gần đây các nhà biên đạo múa Nhật Bản đã dựng một số tác phẩm châu Âu. Điều đó bắt đầu góp phần giải phóng các nghệ sĩ khỏi sự hạn chế trong việc thể hiện do sự áp đặt khắt khe của nghệ thuật múa cổ điển Nhật Bản, đưa vào các động tác táo bạo và cởi mở hơn.
Người Nhật còn có một loại nghệ thuật độc đáo bao gồm thể loại hài kịch Rakugo, Manzai với hình thức tương tự kiểu hài kịch giải trí. Ngoài ra còn có Kodan và Naniwa bushi là hai hình thức kể chuyện vui. Những hình thức hài kịch này được gọi chung là các trò giải trí Yose theo tên gọi nhà hát hài kịch kiểu Nhật, nơi các trò giải trí đó được trình diễn rộng rãi.
Điện ảnh
Nhật Bản là một trong những cường quốc về điện ảnh. Nhật là nước đầu tiên ở châu Á phát triển nghệ thuật thứ bảy. Ngay từ năm 1899-1900, một số cảnh Kabuki đã được quay. Những phim tài liệu đầu tiên của Nhật xuất hiện trong chiến tranh Nga - Nhật. Thời kì hoàng kim của điện ảnh Nhật là những năm 50 với số lượt người đến rạp xem hàng năm đạt tới con số hàng tỉ. Thời kì này có khá nhiều tác phẩm điện ảnh có chất lượng được hoan nghênh ở trong nước và quốc tế như Bảy chàng võ sĩ đạo của đạo diễn Kurosawa, Câu chuyện Tokyo của OYasujiro.

Poster Phim Bảy chàng võ sĩ đạo – 1954 (Nguồn: Wikipedia)
Sự xuất hiện của vô tuyến truyền hình vào những năm 60 làm cho số người đi xem phim ở rạp giảm mạnh và sự phổ biến video vào những năm 80 dẫn tới kết quả là sốnngười đi xem phim thấp hẳn. Trong những năm gần đây, nhiều rạp chiếu phim phải đóng cửa vì thất thu.
Phim đầu tiên khiến phương Tây biết đến điện ảnh Nhật là Rashomon, đã đoạt giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Venezia (1951). Sau đó là một loạt phim đoạt các giải thưởng quốc tế như Cổng thiên đường (1954), Người kéo xe (1958), Đảo trụi (1961), Tháp trắng (1967), Bài ca Narayama (1983), ...
Hiện nay, điện ảnh Nhật ít gặt hái được thành công trên thế giới, và người Nhật vẫn có xu hướng thích xem phim nước ngoài, đặc biệt là phim của Hoa Kỳ, phim Pháp và phim Italia. Tuy vậy, cũng có những bộ phim Nhật được người Nhật đặc biệt yêu thích và được dựng đi dựng lại nhiều lần, trong đó giữ kỉ lục là phim Toran san (Anh Toran) được dựng đi dựng lại hơn 20 lần trong vòng 20 năm, với cùng một dàn diễn viên. Tổng số phim Nhật và nước ngoài chiếu tại Nhật Bản năm 1990 là 704 phim, trong đó số phim Nhật là 239 và phim Mỹ là 248.
(Trích “Nhật Bản – Đất nước, Con người, Văn học”, trang 77 ~ 80, Ngô Minh Thủy và Ngô Tự Lập)