Phần 1: Văn hóa Jomon (8000 năm trước CN đến 300 năm trước CN)
Vào đầu thời Toàn tân (khoảng 1 vạn năm cách ngày nay), Nhật Bản trở thành một quần đảo tách ra khỏi lục địa châu Á. Con người trên quần đảo này buộc phải thích nghi với điều kiện sống mới cách xa đất liền. Để săn bắn có hiệu quả hơn, họ đã cải tiến các công cụ đá bằng kỹ thuật mài, đánh bóng, và sử dụng nhiều hơn công cụ bằng gỗ, tre, sừng, xương. Đặc biệt người ta đã phát minh ra kỹ thuật làm gốm.
Loại đồ gốm xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản có hoa văn đặc trưng hình dây thừng nên được gọi là gốm Jomon (thằng văn). Gốm Jomon xuất hiện ở Nhật Bản từ 8 nghìn năm đến 3 trăm năm trước công nguyên. Người ta lấy tên của loại đồ gốm này để gọi nền văn hóa đá mới có gốm đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản. Các di chỉ có gốm Jomon được tìm thấy trên khắp nước Nhật, đặc biệt tập trung nhiều ở phía đông quần đảo Nhật Bản, ven bờ Thái Bình Dương như vịnh Sendai, vịnh Tokyo, bờ Nội hải Seto, bở biển Ariake...Dựa vào hình dáng và hoa văn, người ta chia đồ gốm Jomon thành 5 kỳ là tảo kỳ, tiền kỳ, trung kỳ, hậu kỳ và mạt kỳ.
Gốm Jomon Tảo kỳ được tìm thấy nhiều tại các hang động hay mái đá, có hình bát sâu, đáy tròn hoặc nhọn, hoa văn gồm những đường gờ nổi hoặc rãnh chìm, màu nâu đen. Trên mặt gốm còn sót lại dấu tích của các sợi thực vật.
Đồ gốm Tiền kỳ có hình dáng và trang trí phức tạp, thường có đáy bằng, hình bát sâu hoặc ống tròn, hoa văn dây thừng và các điểm nổi.
Đồ gốm Trung kỳ có kích thước lớn, đáy bằng, hình ống tròn hoặc hình vò, hoa văn là những đường gờ nổi lớn.

Một bình gồm thuộc trung kỳ Jomon (3000 - 2000 TCN) tên là kaen doki (bình đất nung lửa), Bảo tàng quốc gia Tokyo, Nhật Bản
Vào Hậu kỳ và Mạt kỳ, gốm Jomon có thành mỏng hơn, được làm bằng loại đất sét tốt. Hình dáng cũng đa dạng hơn, ngoài hình bát sâu còn hình đĩa, bình, có loại có vòi rót. Hoa văn thừng được mài ở các gờ nổi, hay văn chìm hình mây hoặc các đường thẳng. Một số đồ gốm Mạt kỳ không có hoa văn.
Đặc điểm chung của gốm Jomon là được nặn bằng tay, nung lộ thiên ở nhiệt độ thấp (600-700 độ) nên thường có màu đen ám khói. Gốm Jomon được dùng để đựng, nấu hay tích trữ thức ăn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng với hình dáng đặc biệt và hoa văn phức tạp, có thể gốm Jomon còn là các vật cúng thần trong các nghi lễ tôn giáo.
Đồ đá vẫn là công cụ phổ biến nhất. Bên cạnh những công cụ đá được ghè đẽo đã xuất hiện các công cụ được mài nhẵn và đánh bóng công phu. Nhiều nhất là các loại rìu đá, chày đá, mũi giáo bằng đá... Ngoài ra, còn các đồ đựng như đĩa đá, cối đá, hay các dụng cụ đánh cá như lưỡi câu bằng đá, hay các đồ trang sức đá như hoa tai, chuỗi hạt, vòng tay...
Bên cạnh đó, các dụng cụ bằng xương, sừng hươu hay nanh lợn rừng, cũng rất phổ biến nhất là lưỡi câu và lưỡi giáo. Công cụ bằng tre, gỗ chủ yếu là cán dao, giáo, cung, hay đĩa, bát, và thuyền gỗ tròn.
(Trích “Lịch sử Nhật Bản”, trang 17~19, Nguyễn Quốc Hùng, Đặng Xuân Kháng, Nguyễn Văn Kim và Phan Hải Linh)