VÀI NÉT VỀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ VÀ CHỦ NGHĨA DUY NGHIỆM
Thứ Ba, 13/04/2021 10:42
Ngày 31/3/2021 vừa qua, Viện nghiên cứu phát triển văn hóa, giáo dục và ngôn ngữ (CLEF) phối hợp cùng Viện quốc tế Pháp ngữ (IFI) và Công ty quốc tế Việt (QTV) đã tổ chức thành công Tọa đàm với chủ đề “Chủ nghĩa nghĩa duy lý và đặc sắc tư duy người Pháp”. Về chủ nghĩa duy lý đã và đang có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết liên quan. CLEF tập hợp và giới thiệu một số nét chính trong quan điểm phổ biến về chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm.
1.Chủ nghĩa duy lý (Rationalism) là một học thuyết trong lĩnh vực nhận thức luận. Theo nghĩa rộng nhất, đó là quan điểm rằng lý tính là nguồn gốc của tri thức hay sự minh giải. Nói cách khác, chủ nghĩa duy lý là một phương pháp hoặc học thuyết mà trong đó tiêu chuẩn về chân lý không có tính giác quan mà có tính trí tuệ và suy diễn logic. Tùy theo mức độ nhấn mạnh phương pháp hay học thuyết này mà dẫn tới các quan điểm duy lý khác nhau, từ quan điểm ôn hòa rằng lý tính đáng được ưu tiên hơn các cách thu thập tri thức khác cho đến quan điểm cấp tiến rằng lý tính là con đường duy nhất tới tri thức.
Chủ nghĩa duy lý có tầm quan trọng lớn trong nền văn minh La Mã và Hy Lạp cổ đại. Tư duy này còn ảnh hưởng đến ngày nay, góp phần những thay đổi quan trọng xã hội. Chủ nghĩa duy lý còn thường được gọi là chủ nghĩa duy lý lục địa, bởi vì nó đã chiếm ưu thế trong các trường phái triết học của Châu Âu lục địa, trong khi ở Anh thống trị bởi chủ nghĩa kinh nghiệm.
Chủ nghĩa duy lý thường được gắn với tên tuổi các triết gia lừng danh như: Descartes, Leibniz, Spinoza, Voltaire, Montesquieu, Rousseau... Trong số đó, R. Descartes được thừa nhận là người có một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử triết học. Descartes được xem là một trong những trụ cột tiên phong của trường phái duy lý (rationalism), xem lý luận là lời giải cho hầu hết mọi vấn đề, kể cả việc đi tìm sự thật, chân lý. Là người tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của trí tuệ con người, Descartes luôn kiên định lập trường duy lý trong nhận thức luận. Khi giải quyết vấn đề nhận thức, Descartes theo khuynh hướng gắn khái niệm ý thức với khái niệm tư duy. Tuy nhiên, ông đã không đồng nhất một cách vô điều kiện khái niệm tư duy với khái niệm ý thức. Ông cho rằng sự phân định giữa các khái niệm đó không chỉ thuần tuý về mặt hình thức, mà còn là ở chỗ, ý thức là cái mà thông qua đó, chúng ta ý thức, còn tư duy là cái mà chúng ta ý thức về nó. Mặt khác, theo ông, không nên đặt ra cho trí tuệ con người bất kỳ một giới hạn nào cả. Với học thuyết về trực giác trí tuệ bẩm sinh, khi xem xét những quan niệm truyền thống của chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy cảm, Descartes đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy lý. Ông kêu gọi con người hướng tới việc hoàn thiện và phát triển khả năng trí tuệ của mình, hướng tới lumen naturale (ánh sáng tự nhiên - cái được Descartes đồng nhất với khả năng trí tuệ cao nhất của con người).
Với vai trò tiên phong, những gì Descartes đạt được, tuy mang tính khai phá và nền tảng lúc đó, thật ra cũng chỉ là những viên gạch đầu tiên cho sự hình thành chủ nghĩa duy lý sau này. Các nhà duy lý đưa lý luận lên một bậc nữa, cho rằng sự thật chỉ có thể đạt được bằng phương pháp duy lý, nghĩa là, muốn tìm sự thật thì phải ưu tiên hóa lý lẽ như là mục đích chứ không chỉ là phương tiện thôi. Chủ nghĩa duy lý bắt đầu như một hiện tượng trí thức, trong đó, giới ưu tú tích cực tham dự vào bài toán triết học, đi tìm sự thật về con người và vũ trụ, đi tìm những tư tưởng giải phóng con người khỏi sự u mê của chính trị và tôn giáo v.v…
Nếu như vào thời trung đại và trước đó, lý luận chỉ được xem là phương tiện mà thôi, thì ngày nay, tại các quốc gia tiên tiến (Âu-Mỹ), lý luận đã trở thành không những phương tiện mà còn được xem là mục đích. Đây không phải là điều khó hiểu, bởi chính việc đề cao lý luận như mục đích đã đưa đến những thành quả vĩ đại và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống và sự phát triển của xã hội loài người. Về mặt chính trị, đó là các tư tưởng mang tính giải phóng nở rộ từ thế kỷ 18 đến nay, biến các khát vọng về tự do, công bằng, dân chủ, dân quyền, nhân quyền, công lý, đa nguyên, pháp trị v.v… thành hiện thực. Nhiều lý thuyết hay tư tưởng về tự do trong lãnh vực chính trị, kinh tế từ Thời đại Khai sáng đến nay đã giúp giải phóng con người ra khỏi sự nô lệ, áp bức, kiềm kẹp của độc tài, phát xít, giáo điều hay mê tín dị đoan. Mô hình các nhà nước hiện đại, nền kinh tế thị trường, các tường phái triết học chính trị nảy sinh từ đây (Mác-xít, vô chính phủ, tư sản, cộng sản, phát-xít, chủ nghĩa xã hội, nữ quyền luận, sinh thái học…). Dân chủ đa nguyên, Liên hiệp quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền v.v… cũng từ các tư tưởng (chính trị) giải phóng này mà ra. Về mặt kinh tế, các quốc gia có nền tảng chính trị dựa vào chủ nghĩa phóng khoáng nói riêng (tức dân chủ phóng khoáng), chủ nghĩa duy lý nói chung, có phẩm chất sống (từ vật chất đến tinh thần đến văn hóa) cao nhất thế giới. Trên địa hạt chính trị - kinh tế, hiện thân của chủ nghĩa (tân) phóng khoáng hiện nay là kinh tế thị trường được xây dựng và phát triển ở nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, còn là những thành tựu to lớn trong công nghiệp, khoa học kỹ thuật, y học, viễn thông, môi trường, khoa học không gian... Thực tế cho thấy, các chính sách chính trị-kinh tế hiện nay, nhất là tại các quốc gia tiên tiến hàng đầu được hình thành chủ yếu dựa trên nền tảng duy lý luận.
Chủ nghĩa duy lý đã trở thành nền tảng của triết học chính trị tại Âu-Mỹ từ đầu thế kỷ 17 đến nay và ngày nay đã được toàn cầu hóa, trở thành thứ diễn ngôn trần tục duy lý luận. Nó là nền tảng của chủ nghĩa hiện đại, do đó, chủ trương “hiện đại hóa” mà chúng ta nghe thấy quen chính là tinh thần và linh hồn của nó. Với những thành tựu vĩ đại mà nó đạt được, các nhà nước đều muốn học hỏi tinh thần này. Nhật Bản là quốc gia đã học hỏi rất kỹ lưỡng phương pháp của Âu-Mỹ, tức chủ nghĩa duy lý, và chỉ mất 30 năm để từ một nước thuần nông nghiệp trở thành một cường quốc công nghiệp. Cũng cần nhấn mạnh rằng văn hóa và truyền thống Nhật vốn rất hữu lý – “rational” cho nên Nhật tiếp thu văn hóa và cách thức của Âu-Mỹ rất nhanh.
Là những người đi sau, chúng ta may mắn học hỏi được những thành công cũng như thất bại của bao nhiêu dân tộc đi trước, nhất là của người Âu-Mỹ và Nhật Bản. Cần nhận thức được rằng, chủ nghĩa duy lý là sự nâng cao lý luận không chỉ là phương tiện mà còn là mục đích. Do đó, trong mọi mặt xã hội cần xem xét, cân nhắc những giá trị khách quan, khoa học, phù hợp của phương pháp tư duy lý luận và cần xây dựng được văn hóa có khả năng khai dụng sức mạnh của lý luận cho mọi mặt đời sống.
2. Chủ nghĩa duy nghiệm hay chủ nghĩa kinh nghiệm (Empiricism) là một khuynh hướng lý thuyết về tri thức triết học với đặc điểm nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm. Chủ nghĩa kinh nghiệm nhấn mạnh đến các khía cạnh của tri thức khoa học có quan hệ chặt chẽ với trải nghiệm, đặc biệt khi được tạo ra qua các sắp đặt thử nghiệm có chủ ý. Một yêu cầu căn bản của phương pháp khoa học là tất cả các giả thuyết và lý thuyết đều phải được kiểm nghiệm bằng các quan sát về thế giới tự nhiên thay vì chỉ dựa trên lập luận.
Học thuyết đầu tiên về chủ nghĩa kinh nghiệm được gắn với tên tuổi John Locke vào thế kỷ XVII. Locke cho rằng tâm thức là một tabula rasa (tấm bảng sạch) trước khi các trải nghiệm lưu dấu vết của mình lên đó. Chủ nghĩa kinh nghiệm của Locke phủ nhận rằng con người có các ý niệm bẩm sinh hay cái gì đó nhận biết được mà không phải tham chiếu tới trải nghiệm. Chủ nghĩa kinh nghiệm không cho rằng ta có được các tri thức kinh nghiệm một cách tự động. Thay vào đó, theo quan điểm của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, để cho một tri thức bất kỳ có thể được suy luận hoặc suy diễn một cách đúng đắn, tri thức đó phải bắt nguồn từ trải nghiệm giác quan của ta. Một số triết gia quan trọng được cho là có quan hệ với chủ nghĩa kinh nghiệm bao gồm Aristotle, Thomas Aquinas, Francis Bacon, Thomas Hobbes, John Locke, George Berkeley, David Hume, và John Stuart Mill. Các hình thức sơ khởi của chủ nghĩa kinh nghiệm bao gồm các công trình nghiên cứu về nhận thức luận của một số nhà triết học, trong đó có Aristotle, Thomas Aquinas và Roger Bacon. Aristotle đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quy nạp dựa trên kinh nghiệm.
Về mặt lịch sử, chủ nghĩa kinh nghiệm triết học thường được đặt đối lập với trường phái tư tưởng được gọi là "chủ nghĩa duy lý ". Tuy nhiên, thực chất, sự đối lập này không hoàn toàn triệt để bởi vì các nhà duy lý lục địa chủ chốt như Descartes, Spinoza và Leibniz cũng đã ủng hộ các "phương pháp khoa học" theo lối kinh nghiệm vào thời của họ. Hơn nữa, về phần mình, Locke cũng cho rằng có một số tri thức (chẳng hạn tri thức về sự tồn tại của Chúa Trời) chỉ có thể đạt được bằng trực giác và lập luận mà thôi.
Bước sang thế kỷ 20, chủ nghĩa kinh nghiệm lôgic (còn gọi là chủ nghĩa thực chứng lôgic (logical positivism) hay chủ nghĩa chứng thực mới (neopositivism) đã gắng tổng hợp các tư tưởng cốt lỗi của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh (ví dụ, nhấn mạnh vào trải nghiệm giác quan như là nền tảng của tri thức) với một số hiểu biết từ ngành logic toán học do Gottlob Frege và Ludwig Wittgenstein phát triển. Các nhà thực chứng mới có chung một quan niệm rằng triết học là sự làm trong sáng về khái niệm của các phương pháp, hiểu biết và các phát kiến của khoa học.
***
Để nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực có hiệu quả, con người cần phải có cả kinh nghiệm và cả lý luận. Vấn đề là ở chỗ, biết xử lý khách quan, khoa học hai hình thức phản ánh đó. Đánh giá đúng thực chất, ý nghĩa của kinh nghiệm, là một cơ sở giúp cho con người thể hiện được tính chủ động, tích cực và sáng tạo trong xử lý và vận dụng kinh nghiệm vào quá trình phản ánh hiện thực. Vấn đề này còn có ý nghĩa quan trọng là góp phần vào công cuộc xây dựng tư duy mới, tư duy khoa học của con người với tư cách là chủ thể cải tạo và xây dựng thành công xã hội mới.
CLEF (tổng hợp)
Bảy vị thần phúc (shichikujin) là một nhóm các vị thần mỗi khi Tết đến thường xuất hiện đây đó trên tivi, báo, tạp chí... cầu chúc năm mới may mắn cho mọi người.
MỞ ĐẦU
Trong thành công và sức sống của bất kỳ lĩnh vực nghệ thuật nào, không thể phủ nhận vai trò quyết định của cá nhân xuất sắc.
Nhiều cuộc cách mạng nghệ thuật bắt đầu một cách tình cờ, không phải bởi các lý thuyết gia được trọng vọng, mà bởi các tác giả bên lề, thậm chí không chuyên. Một ví dụ là những cuộc cách mạng văn chương do phụ nữ khởi đầu.
Hai chữ “Nhật Bản” trong quốc hiệu Nhật Bản đã xuất hiện từ bao giờ và như thế nào, ý nghĩa của tên gọi này là gì?
Văn hóa sơ kì Heian
Mặc dù văn hóa Nhật Bản trong những năm đầu thời Heian về cơ bản vẫn chịu ảnh hưởng của văn hóa Đường nên được gọi chung là văn hóa Đường phong, nhưng đây chính là thời kì các ảnh hưởng ngoại lai dần dung hợp với các yếu tố văn hóa bản địa để chuẩn bị cho sự ra đời của một nền văn hóa Nhật Bản đặc sắc.
Văn hóa Kofun (cuối thế kỉ III đến đầu thế kỉ VIII)